Máy bay không người lái. Iphone. Bluetooth. GPS. Trước khi thay đổi thế giới, những công nghệ đó đều là bản thiết kế trên giấy. Cũng là nơi mà tương lai bắt đầu.
Hãy quên hình ảnh nhà phát minh đơn độc làm việc chắp vá trong xưởng. Vì ngày nay, nhiều công nghệ được phát triển bởi nhiều nhà sáng chế kết hợp với nhau để tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh, ví dụ như điện thoại thông minh IPhone và xe tự lái. Những sáng chế khác, như là máy bay không người lái và máy in 3D, đã được thiết kế một thập kỷ trước khi công nghệ xung quanh đột nhiên chuyển mình từ một thiết bị lõi trở thành một hiện tượng toàn cầu.
Sự đổi mới có thế khác so với hiện nay nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị và hơn thế nữa. Dưới đây là 15 sáng chế đã định hình thế giới hiện đại ngày nay.
TÀU ĐỆM TỪ (MAGLEV)
1. Tên sáng chế: “Nam châm điện tử cảm ứng làm giảm xóc và cân bằng hệ thống cho phương tiện trên mặt đất
2. Tên tác giả: Powell James R JR; Danby Gordon T
3. Quốc tịch: Anh
4. Năm công bố: 21/11/1967
5. Giới thiệu về sáng chế
Câu chuyện về tàu chạy bằng từ trường bắt đầu với Eric Laithwaite và công việc của ông với động cơ cảm ứng tuyến tính toàn phần. Nhà sáng chế đã nhận định đây là động cơ tuyến tính, thứ không yêu cầu sự tương tác với một tuyến đường sắt, có thể dùng để phát triển hệ thống giao thông dựa trên lớp từ trường. Laithwaite đã thử nghiệm động cơ cảm ứng tuyến tính và nó đã có thể sử dụng nam châm để vừa nâng lên vừa đẩy về phía trước.
Nghiên cứu của Laithwaite đã được tiếp thu một cách rộng rãi và vào năm 1967, James Powell và Gordon Danby từ viện nghiên cứu quốc gia Brookhaven được cấp bằng sáng chế đầu tiên cho tàu maglev. Thiết kế của họ được dự định sử dụng cho nam châm điện siêu dẫn để tạo ra “một lực giảm xóc, làm tàu nổi lên khỏi mặt đất” và nó đã được sử dụng cho “cánh quạt, máy bay phản lực hay tên lửa” để tạo ra lực đẩy.
Trong khi nghiên cứu của Laithwaite đã được liên kết với thiết kế của Powell và Danby về tàu nổi, tàu đệm từ thương mại đầu tiên đã xuất hiện. Một hệ thống tàu maglev đã được mở tại Anh năm 1995, và người Đức đã xây dựng và thử nghiệm một số những kết quả đầu tiên về tàu đệm từ. Công trình tàu cao tốc đệm từ của Đức tại Shanghai là tuyến tàu thương mại nhanh nhất thế giới với tốc độ tối đa là 270 mph, trong khi tàu đệm từ dòng L0 nguyên mẫu của Nhật Bản đạt kỷ lục về tốc độ của tàu với 375 mph. Trong tương lai, hệ thống cảm ứng điện từ có thể sử dụng công nghệ tương tự để làm nổi và tăng tốc khoang hành khách trong một ống kín chân không, nó có tiềm năng đẩy tốc độ tối đa lên con số 750 mph.
IPHONE
1. Tên sáng chế: “Thiết bị điện tử”
2. Tên tác giả: N/A
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: N/A
5. Giới thiệu về sáng chế
Bằng sáng chế cho thiết bị nổi bật nhất của thế kỷ 21 hầu như không cho bạn biết gì thêm về nó. Toàn bộ bằng sáng chế của Apple cho iPhone nguyên bản, được liệt kê đơn giản là một “thiết bị điện tử”, và nói rằng nó là một “thiết kế trang trí của một thiết bị điện tử, như đã được hiển thị và mô tả.” Sau đó, tài liệu ghi nhãn tám hình của “thiết bị điện tử”, chỉ dẫn cho bạn biết nó được hiển thị từ hướng nào, sau đó trích dẫn các bằng sáng chế và tài liệu liên quan khác. Tuy rằng iPhone không phải chiếc điện thoại thông minh đầu tiên vào cũng không phải là chiếc điện thoại đầu tiên có thể kết nối với internet, nhưng thiết kế căn bản của nó đã thành công trong việc thay đổi về kiểu dáng và chức năng của thiết bị mà ngày nay rất nhiều người đang hàng ngày sử dụng. Không chỉ là một chiếc máy tính cầm tay mà còn hơn một chiếc điện thoại, iPhone và những cải tiến sau đó trên “thiết bị điện tử” đã ảnh hưởng đến cách con người giao tiếp, điều hướng và thậm chí là suy nghĩ.
ROBOT KHUNG XƯƠNG TRỢ LỰC
1. Tên sáng chế: “Thiết bị hỗ trợ chuyển động và phương pháp”
2. Tên tác giả: Goffer Amit; Zilberstein Chaya
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: 13/10/2008
5. Giới thiệu về sáng chế
Khung xương ngoài (Exoskeletons) đã có lịch sử phát triển lâu đời, bắt nguồn từ “thiết bị hỗ trợ đi bộ” do Nicholas Yagin phát minh vào năm 1890. Bộ đồ được thiết kế nhằm khuếch đại sức mạnh của một người lính để anh hoặc cô ấy có thể nâng được 1.500 pound tương đương 680 kilogam, nhưng bộ xương trợ lực phải chịu những chuyển động nặng nề và mất kiểm soát khi hoạt động hết công suất và chưa bao giờ được thử nghiệm trên con người.
Công nghệ tiếp tục được cải thiện và nhiều công ty đã đầu tư vào các thiết kế của khung xương ngoài để hỗ trợ những người bị liệt hay khuyết tật ở các mức độ khác nhau hoặc để hỗ trợ công nhân trên công trường. ReWalk, công ty nắm giữ bằng sáng chế khung xương ngoài trợ lực năm 2014, đã chế tạo một bộ xương ngoài được sử dụng tại các trung tâm phục hồi chức năng cho phép những người bị liệt nhẹ học cách ngồi, đứng, đi và thậm chí leo cầu thang. Các thiết kế khác đang được thực hiện tại MIT và Cơ quan Vũ trụ Châu Âu. Các công nhân xây dựng, binh lính và thậm chí là phi hành gia trong tương lai có thể tận dụng các bộ đồ làm bằng xương trợ lực.
MÁY BAY KHÔNG NGƯỜI LÁI
1. Tên sáng chế: “đa hướng, chuyển động thẳng lên, trực thăng không người lái”
2. Tên tác giả: Vanderlip Eward G
3. Quốc tịch: Mỹ
4. Năm công bố: 06/10/1959
5. Giới thiệu về sáng chế
Máy bay không người lái, nay đã xuất hiện nhiều trên công viên và thường “làm phiền” các máy bay chuyên dụng, đã được cấp bằng sáng chế lần đầu vào năm 1962. Edward G. Vanderlip, một kĩ sư làm việc tại Piasecki Aircraft Corporation (tập đoàn sản xuất máy bay Piasecki) lần đầu thiết kế ra phương thức giúp cho các bộ phận của máy bay tiếp tục hoạt động trong điều kiện mất điện. Vanderlip sau đó đã có ý tưởng kết hợp các hệ thống bay thân thiện với phi công vào một chiếc máy bay quay nhỏ được điều khiển từ xa. Bằng sáng chế của ông về máy bay trực thăng “đa hướng, nâng thẳng đứng” đã phác thảo ra chiếc máy bay không người lái được thiết kế để bay một cách “cực kỳ đơn giản”. Thiết kế của máy bay có “bốn cánh quạt được bố trí theo cặp ở hai đầu đối diện” để trục nghiêng thẳng đứng và luôn vuông góc với mặt đất. Điều này cho phép máy bay nghiêng cánh quạt và bay theo bất kỳ hướng nào trong khi vẫn duy trì được độ cao cố định. Ngay sau khi hệ thống điều khiển chuyến bay và các hệ thống điện tử khác, chẳng hạn như camera và định vị GPS bắt kịp được sáng kiến của Vanderlip, máy bay không người lái đã ngày càng phổ biến hơn.
MÁY IN 3D
1. Tên sáng chế: “Thiết bị sản xuất vật thể ba chiều bằng kỹ thuật in lập thể”
2. Tên tác giả: Hull Charles W.
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: 08/08/1984
5. Giới thiệu về sáng chế
Được cấp vào năm 1986, bằng sáng chế cho máy in 3D đã đi trước thời đại. Tài liệu phác thảo công nghệ cơ bản được sử dụng bởi hầu hết các máy in 3D: kỹ thuật in lập thể hay quá trình đông đặc nhẹ của nhựa. Một tấm nền chuyển động lấy đầu vào từ máy tính và đặt đế dưới vòi phun. Nhựa lỏng từ vòi phun tạo thành vật thể, từng lớp, từng lớp và được hóa rắn bằng tia UV. Khi công nghệ máy tính phát triển, giá trị thực sự của máy in 3D đã trở nên rõ ràng. Với các phương pháp in kim loại như thiêu kết kim loại bằng laser, các nhà sản xuất hiện đang in 3D các công trình đầy tham vọng như cầu và động cơ tên lửa.
MẮT ĐIỆN TỬ
1. Tên sáng chế: “Lắp ghép võng mạc và phương pháp sản xuất bộ phận giả võng mạc”
2. Tên tác giả:
Greenberg Robert J. – Mỹ
Ok Jerry
Neysmith Jordan
Wilkins Kevin
Talbot Neil Hamilton
Chang Da-Yu
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: N/A
5. Giới thiệu về sáng chế
Nỗ lực đầu tiên để khôi phục thị lực cho người mù là vào năm 1968, khi các bác sĩ G. S. Brindley và W. S. Lewin phẫu thuật cấy ghép thiết bị cho một bệnh nhân 52 tuổi. Thiết bị điện tử không được cấy vào mắt của bệnh nhân, mà là trên thùy não của anh ấy. Bằng cách kích thích các tế bào thần kinh của não, các bác sĩ đã khiến bệnh nhân nhìn thấy những đốm sáng trong nửa tầm nhìn của mình.
Ngày nay, với các thiết bị điện tử nhỏ hơn, các thiết bị phục hồi thị lực có thể được cấy trực tiếp vào võng mạc, như được mô tả trong bằng sáng chế năm 2013 này. Một máy ảnh, thường được gắn trên kính râm được sử dụng để thu thập dữ liệu về khu vực xung quanh và gửi tín hiệu đến bộ phận cấy ghép võng mạc, sau đó kích thích các cơ quan thụ cảm ánh sáng trong mắt. Những bệnh nhân mù hoàn toàn đã có thể sử dụng công nghệ này để phục hồi một phần thị lực, bao gồm khả năng nhìn hình dạng và ánh sáng. Khi các điện cực tiếp tục co lại, cho phép các cơ quan cảm nhận ánh sáng cụ thể được kích thích, công nghệ này chỉ được tạo ra để hỗ trợ con người tốt hơn.
HỆ THỐNG ĐỊNH VỊ TOÀN CẦU (GPS)
1. Tên sáng chế: “Hệ thống định vị sử dụng vệ tinh và các kỹ thuật thụ động khác nhau.”
2. Tên tác giả: EASTON R
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: 08/10/1970
5. Giới thiệu về sáng chế
Vệ tinh GPS được phát minh bởi lực lượng hải quân và ngày nay chúng được vận hành bởi lực lượng không quân. Roger L. Easton là đứng sau sự hình thành Hệ thống Định vị Toàn cầu, thứ công nghệ đã được phát triển vào những năm 1950 phục vụ cho Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) để theo dõi các vệ tinh của Hoa Kỳ trên quỹ đạo — và sau đó là các vệ tinh của Liên Xô. Năm 1959, Easton phát triển hệ thống Giám sát Không gian Hải quân — mạng lưới radar đầu tiên theo dõi mọi vật thể quay quanh Hoa Kỳ.
Trong những thập kỷ tiếp theo, Easton đã chuyển đổi công nghệ của mình sang theo dõi các vật thể trên mặt đất từ không gian. Bằng sáng chế năm được trao cho ông năm 1974 đã mô tả các phương pháp giúp định vị bằng vệ tinh. Đồng hồ có độ chính xác cao được đưa vào các nhiệm vụ như TIMATION I và II đã cải tiến công nghệ và khắc phục các lỗi do thuyết tương đối hẹp gây ra. Vào năm 1970, dữ liệu GPS đầu tiên đã được truyền bởi Vệ tinh Công nghệ Định vị 2. Công nghệ này tiếp tục được sử dụng trong quân đội trong nhiều năm và Hoa Kỳ đã sử dụng vệ tinh GPS để định hướng các sa mạc của Kuwait và Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, đôi khi được gọi là “cuộc chiến không gian đầu tiên”. GPS bắt đầu hoạt động đầy đủ với 24 vệ tinh vào năm 1995 và ngày nay, bản đồ của Google (Google Maps) hầu như đã chính xác hoàn toàn.
KỸ THUẬT CHỈNH SỬA GEN CRISPR
1. Tên sáng chế: “Hệ thống CRISPR-Cas và phương pháp thay đổi biểu hiện của các sản phẩm từ gen”
2. Tên tác giả: ZHANG FENG
3. Quốc tịch: Mỹ
4. Năm công bố: 01/05/2007
5. Giới thiệu về sáng chế
CRISPR-Cas9 là một công cụ chỉnh sửa gen được phát triển tại Đại học California, Berkeley, để sửa đổi các sinh vật đơn bào. Công nghệ này sau đó đã được cải tiến tại Viện nghiên cứu Broad, một tổ chức phi lợi nhuận hợp tác với Harvard và MIT, để làm việc trên các sinh vật đa tế bào, như được nêu trong bằng sáng chế vào năm 2014. Ngày nay, CRISPR được sử dụng để sửa đổi cây trồng và vật nuôi, cũng như để điều trị cho những bệnh nhân mắc bệnh như bệnh bạch cầu. Công cụ CRISPR-Cas9 hoạt động theo ba phần: một sợi ARN đặt ở phần chính xác của ADN một sinh vật, enzyme Cas9 cắt đoạn ADN đó và gắn một sợi ADN tùy chọn để thay thế phần đã bị cắt.
CRISPR có thể được tiêm vào phôi hoặc đưa vào các tế bào như tế bào của hệ thống miễn dịch và sau đó được tiêm vào bệnh nhân. Các tiềm năng về kỹ thuật di truyền chỉ mới bắt đầu hình thành, với các loại thuốc và phương pháp điều trị mới cho nhiều loại bệnh đang được triển khai.
CẤY GHÉP NÃO
1. Tên sáng chế: “Thiết bị điện cực ba chiều”
2. Tên tác giả: N/A
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: N/A
5. Giới thiệu về sáng chế
Vào cuối những năm 1800, các bác sĩ đã nhận ra kích thích điện của não có thể tạo ra chyển động cơ thể ở người và động vật. Vào thế kỷ 20, các thí nghiệm liên quan đến sự kích thích của não đã thành công trong việc thay đổi tâm trạng và hành vi của bệnh nhân.
Bằng sáng chế năm 1993 của Đại học Utah đã miêu tả thứ gọi là “Mảng Utah”, được mô tả trong bằng sáng chế sau này là “một thiết bị tích hợp, có thể cấy ghép liên kết với não bộ với nhiều kim bằng kim loại để phát hiện hoặc truyền tín hiệu đến bộ não.”
Kể từ đó, công nghệ cấy ghép não đã phát triển đến mức bệnh nhân có thể di chuyển bộ phận giả bằng robot hoặc gõ văn bản trên máy tính bằng suy nghĩ của họ. Trong tương lai, các công nghệ như gien thần kinh bao phủ một số lượng lớn tế bào thần kinh có thể được sử dụng để cho phép con người giao tiếp với máy tính bằng trí óc.
GRAPHENE
1. Tên sáng chế: “Tấm nano graphene”
2. Tên tác giả: Jang Bor Z.; Huang Wen C.
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: 21/10/2002
5. Giới thiệu về sáng chế
Chúng ta chắc hẳn đang bước vào Kỷ nguyên Graphene. Vật liệu hỗn hợp được làm từ một lớp phân tử carbon xếp theo cấu trúc tổ ong, có trọng lượng cực kỳ nhẹ, bền hơn khoảng 200 lần so với các lớp thép tương ứng, đồng thời có khả năng chịu nhiệt cao và dẫn điện hiệu quả. Những đặc tính này khiến graphene và các vật liệu tổng hợp cacbon tương tự là bộ phận lý tưởng cho chip máy tính, cánh máy bay và nhiều mục đích sử dụng khác.
Graphene được làm từ các khối than chì, tương tự như những gì bạn tìm thấy trong bút chì. Tuy nhiên, việc cô lập một lớp phân tử cacbon, chỉ dày một nguyên tử, lại là một thách thức vô cùng lớn. Mãi đến năm 2004, Andre Geim và Konstantin Novoselov tại Đại học Manchester mới chiết xuất được các tinh thể graphene một lớp, dày một nguyên tử bằng cách sử dụng một loại băng, được gọi là “phương pháp băng Scotch.” Công trình này đã mang về cho họ giải Nobel Vật lý năm 2010 “cho các thí nghiệm đột phá về vật liệu hai chiều (2D) graphene.” Nối tiếp sau đó là những cách thức mới và sáng tạo để chiết xuất vật liệu, chẳng hạn như bằng sáng chế năm 2006 đã tạo ra graphene bằng kỹ thuật “tẩy tế bào chết”.
BLUETOOTH
1. Tên sáng chế: “Trao đổi thông giữa các thiết bị thông tin di động”
2. Tên tác giả: Bloebaum, L., Scott; Koorapaty, Havish
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: 23/01/2001
5. Giới thiệu về sáng chế
Jaap Haartsen đã phát minh ra Bluetooth vào năm 1994, cho phép các thiết bị điện tử ở gần kết nối với nhau bằng cách sử dụng sóng vô tuyến tần số siêu cao, năng lượng thấp. Haartsen đã soạn thảo nhiều bằng sáng chế liên quan đến Bluetooth, nhưng chúng đã bị cản trở bởi các vụ kiện và những kẻ lừa đảo bằng sáng chế. Bằng sáng chế của ông vào năm 2013 đã mô tả cách công nghệ có thể được sử dụng để truyền dữ liệu GPS.
Hệ thống sử dụng các chip máy tính nhỏ được cấy vào các thiết bị hoạt động như một sóng vô tuyến thu nhỏ và chạy phần mềm cần thiết để kết nối với nhau. Các thiết bị “kết nối” qua mạng tầm ngắn được gọi là piconet. Công nghệ này được sử dụng trong hầu hết các thiết bị cầm tay ngày nay, bao gồm tai nghe, máy ảnh và bộ điều khiển nhiệt độ thông minh.
XE TỰ LÁI
1. Tên sáng chế: “Hệ thống tầm nhìn cho xe tự hành”
2. Tên tác giả:
SCHMIEDEL, Gary
YAKES, Christopher, K.
BROGGI, Alberto
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố
5. Giới thiệu về sáng chế
Lịch sử hình thành của ô tô không người lái đã có từ gần một trăm năm trước. Năm 1925, Houdina Radio Control đã điều khiển một chiếc Chandler 1926 không người lái xuống khu phố Manhattan đông đúc xe cộ bằng cách điều khiển nó bằng tín hiệu vô tuyến từ một chiếc ô tô đi sau. Bảy mươi năm sau, dự án Navlab của Đại học Carnegie Mellon “Không tay lái khắp nước Mĩ” lái xe 3.100 dặm trên khắp đất nước trong một chiếc xe bán tự động sẽ làm tất cả mọi thứ trong khi người lái xe chỉ cần tăng tốc xe và phanh.
Ngày nay hiện đã có hàng trăm bằng sáng chế cho công nghệ xe hơi tự lái, nhưng công ty đã vượt qua rào cản đó là một công ty về tầm nhìn máy của Ý có tên VisLab. Vào tháng 7 năm 2013, chiếc xe BRAiVE của VisLab đã tự động điều hướng trên làn đường hai chiều, lối đi qua đường, đèn giao thông, bùng binh và các chướng ngại vật khác ở trung tâm thành phố Parma, Ý. Bằng sáng chế đầu tiên mà công ty nắm giữ về công nghệ xe hơi tự lái là dành cho một hệ thống camera và cảm biến để thu nhận thông tin về môi trường xung quanh xe và nhập lệnh vào máy tính.
Ngày nay, nhiều công ty công nghệ và ô tô lớn đang phát triển ô tô tự lái, chẳng hạn như Google, Amazon và Tesla. Một số chuyên gia đã dự đoán rằng ô tô tự lái sẽ thay thế cả phương tiện giao thông công cộng truyền thống và ô tô thông thường trong các thành phố, biến giao thông đô thị thành một mạng lưới các phương tiện liên kết với nhau để loại bỏ giao thông một cách hiệu quả.
TẤM PIN NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI
1. Tên sáng chế: “Thiết bị sử dụng năng lượng bức xạ mặt trời”
2. Tên tác giả: EDWARD WESTON OF NEW JERSEY
3. Quốc tịch: Anh
4. Năm công bố: N/A
5. Giới thiệu về sáng chế
Vào đầu thế kỷ 19, nhà vật lý người Pháp Edmund Bequerel đã phát hiện ra rằng một số vật liệu nhất định có thể tạo ra một dòng điện nhỏ khi tiếp xúc với ánh sáng: hiệu ứng quang điện. Năm 1839, ông đã tạo ra pin quang điện đầu tiên bằng cách nối bạc clorua (AgCl) đặt trong dung dịch axit với các điện cực bạch kim.
Khoảng năm mươi năm sau, bằng sáng chế đầu tiên của Hoa Kỳ về pin mặt trời đã được trao cho Edward Weston. Bằng sáng chế mô tả một “phần tử nhiệt điện” với hai phần thân là “kim loại khác nhau” được kết nối ở một đầu và cách điện ở mọi nơi khác để “gây ra dòng điện trong mạch” khi tiếp xúc với ánh sáng. Weston thậm chí còn có tầm nhìn xa trông rộng trong việc phác thảo một hệ thống lưu trữ năng lượng để “năng lượng tích tụ được trong những giờ nắng có thể được sử dụng vào ban đêm hoặc những lúc trời nhiều mây”, xác định chính xác thách thức chính của điện mặt trời quy mô lớn ngày nay.
Công nghệ trong các tấm pin mặt trời đã tiếp tục được cải tiến trong nhiều thập kỷ và ngày nay chúng được làm chủ yếu bằng silicon. Vệ tinh Vanguard 1 trở thành tàu vũ trụ đầu tiên sử dụng tấm pin mặt trời vào năm 1958, góp phần phổ biến rộng rãi công nghệ này. Hiện nay, nhà máy năng lượng mặt trời lớn nhất trên thế giới, dự án Kamuthi Solar Power của Ấn Độ, bao phủ khoảng 3,9 dặm vuông và có một công suất điện gần 650 MW.
CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG THẾ HỆ THỨ BA (3G)
1. Tên sáng chế: “Truy cập Internet di động”
2. Tên tác giả: N/A
3. Quốc tịch: N/A
4. Năm công bố: N/A
5. Giới thiệu về sáng chế
Thế hệ đầu tiên của công nghệ viễn thông di động không dây đã biến điện thoại di động trở thành hiện thực. Điện thoại di động kỹ thuật số được hỗ trợ thứ hai. Nhưng chính 3G, bắt đầu với Hệ thống Viễn thông Di động Toàn cầu (UMTS), đã biến đổi thiết bị mà chúng ta mang theo hàng ngày. Thế hệ thứ hai đã hỗ trợ đắc lực cho điện thoại kỹ thuật số. Nhưng từ khi 3G ra đời, bắt đầu với Hệ thống Viễn thông Di động Toàn cầu (UMTS), đã biến đổi chính thiết bị mà chúng ta mang theo hàng ngày.
3G kết nối điện thoại di động với GPS và internet, như được mô tả trong bằng sáng chế được cấp vào năm 2003. Công nghệ này đã giúp cho những cuộc gọi bằng video và phát trực tiếp có thể thực hiện được ngay trên chính chiếc điện thoại thông minh. Những cải tiến đối với mạng di động được hình thành từ cơ sở hạ tầng 4G một thập kỷ sau đã tiếp tục biến điện thoại di động của bạn trở thành chiếc ví di động, trợ lý cá nhân và công cụ giải trí.
CÔNG NGHỆ THỰC TẾ ẢO (VR)
1. Tên sáng chế: “Trình tạo thực tế ảo hiển thị thông tin trừu tượng”
2. Tên tác giả: Marshall Paul Steven
3. Quốc tịch: Anh
4. Năm công bố: 30/09/1992
5. Giới thiệu về sáng chế
Kính VR được đề xuất đầu tiên không phải để chơi trò chơi điện tử hay xem thể thao mà để giúp người dùng phân tích dữ liệu tài chính. Bằng sáng chế năm 2000 dành cho “máy tạo thực tế ảo” được trao cho nhà phát minh Paul Marshall mô tả là một thế giới do máy tính tạo ra mà người dùng có thể điều hướng “bằng cách sử dụng các thiết bị điều khiển, chẳng hạn như bi xoay, găng tay điện tử, thiết bị theo dõi vị trí bằng nam châm, bàn phím, cần điều khiển hoặc vô lăng. “
Marshall tiếp tục nghiên cứu những công nghệ này để tạo ra “không gian thông tin ba chiều”, vẫn nhằm mục đích giúp “nhà quản lý tiền tệ hoặc nhà phân tích tài chính” sàng lọc dữ liệu. Công nghệ này vẫn chủ yếu dùng trong giới nghiên cứu cho đến khi Oculus Rift phát hành kính thực tế ảo giải trí của họ vào năm 2016, và nối tiếp ngay sau đó HTC Vive. Các hệ thống thực tế ảo khác, chẳng hạn như Samsung VR và Google Cardboard, sử dụng điện thoại thông minh để hiển thị thế giới máy tính. Và thực tế tăng cường (AR) như Microsoft HoloLens có thể được sử dụng trong tương lai để hỗ trợ người dùng từ công nhân xây dựng đến nhà khoa học bằng cách bao phủ thông tin dữ liệu lên thế giới thực.
Quang Minh – ELITE LAW FIRM – lược dịch, nguồn: popularmechanics.com